Những chiếc còn lại Lockheed C-130 Hercules

AC-130HAC-130A USAF 53-3129, c.n. 3001Chiếc Hercules đầu tiên chế tạo, được chuyển đổi theo cấu hình vũ trang hạng nặng tháng 11 năm 1967, sống sót sau khi dính đạn phòng không 37 mm trên bầu trời miền Nam Việt Nam tháng 3 năm 1973, đã được sửa chữa, và cuối cùng được Phi đội các Chiến dịch Đặc biệt 711 cho nghỉ hưu năm 1995 để trưng bày tại Bảo tàng Vũ khí Không quân, Eglin AFB, Florida. Được đặt tên "Đệ Nhất phu nhân" từ tháng 11 năm 1970.AC-130A USAF 54-1623, c.n. 3010Được chuyển đổi thành AC-130A bởi Ling-Temco-Vought tháng 3 năm 1968, các chiến dịch tại Đông Nam Á, được đặt tên "Ghost Rider", sau đó hoạt động trong Phi đội các Chiến dịch Đặc biệt 711, 1975-1997. Được cho nghỉ tại Dobbins AFB, Georgia, tháng 4 năm 1997. Cuối cùng được chuyển tới bảo tàng của Lockheed tại Marietta, Georgia.AC-130A USAF 54-1626, c.n. 3013Nguyên mẫu AC-130A nâng cấp, hoạt động tại Đông Nam Á trong biên chế Phi đội các Chiến dịch Đặc biệt 16, 1967-1972, sau đó chuyển thành cấu hình thử nghiệm JC-130A. Chuyển tới Bảo tàng Quốc gia Không quân Hoa Kỳ, Dayton, Ohio với tên gọi JC-130A năm 1976. Chuyển đổi lại theo cấu hình AC-130A cuối thập niên 1990.AC-130A USAF 54-1630, c.n. 3017Máy bay vận tải thuộc 314 TCW, sau đó chuyển tới Trung tâm Thử nghiệm Tên lửa Không quân, Căn cứ Không quân Hanscom, tháng 2 năm 1960, sau đó chuyển đổi thành JC-130A. Chuyển lại thành C-130A, tháng 11 năm 1967. Được Ling-Temco-Vought chuyển đổi thành AC-130A, tháng 1 năm 1968, hoạt động trong Phi đội các Chiến dịch Đặc biệt 16, được đặt tên "Mors de Coelis", sau đó "Azrael - Angel of Death". Chuyển cho 415 SOTS, Hurlburt Field, Florida, tháng 8 năm 1971, sau đó cho 711 SOS, Duke Field, Florida, tháng 11 năm 1975, vẫn giữ tên "Azrael" cho tới khi ngừng hoạt động tại Bảo tàng Quốc gia Không quân Hoa Kỳ 29 tháng 9 năm 1995.AC-130A USAF 56-0509, c.n. 3117Máy bay vận tải thuộc 314 TCW, 315 CN, 374 TCW; chuyển cho Ling-Temco-Vought, tháng 8 năm 1970, và chuyển đổi thành AC-130A. Hoạt động trong Phi đội các Chiến dịch Đặc biệt 1; bị hư hại tại An Lộc, miền Nam Việt Nam ngày 23 tháng 12 năm 1972; được đặt tên "Raids Kill 'Em Dead", tháng 10 năm 1974, chuyển cho Phi đội các Chiến dịch Đặc biệt 711, tháng 7 năm 1975, được đặt tên "Ultimate End", tháng 4 năm, 1994; được nhượng lại cho Hurlburt Field, Florida, tháng 10 năm 1994, và nghỉ hưu tại khu trưng bày Air Commando, tháng 5 năm 1995.C-130A USAF 57-0453, c.n. 3160Được giao nhiều nhiệm vụ vận tải từ 1958 tới 1991, nhiệm vụ cuối cùng với 155th TAS, 164th TAG, Memphis International Airport, Tennessee, 1976-1991, được đặt tên "Nite Train to Memphis"; chuyển cho AMARC tháng 9 năm 1991, sau đó được gửi tới Texas để chuyển đổi thành bản sao của C-130A-II 56-0528, bị máy bay chiến đấu Nga bắn hạ trên không phận Yerevan, Armenia ngày 2 tháng 9 năm 1958, khi đang thực hiện nhiệm vụ ELINT, toàn bộ phi hành đoàn thiệt mạng. Hiện được trưng bày tại National Vigilance Park, vùng đất thuộc Cơ quan An ninh Quốc gia, Fort George Meade, Maryland. Cánh quạt ba lá sau này được đổi thành kiểu bốn lá.KC-130F USMC BuNo 149798, c.n. 3680Được sử dụng trong các cuộc thử nghiệm cất hạ cánh trên tàu sân bay USS Forrestal tháng 10-11 năm 1963 bởi Hải quân Mỹ, nó vẫn giữ kỷ lục là chiếc máy bay lớn nhất cất cánh từ boong một tàu sân bay, và được đặt tên "Look Ma, No Hook" trong các cuộc thử nghiệm. Nghỉ hưu tại Bảo tàng Hàng không Hải quân Quốc gia, NAS Pensacola, Florida tháng 5 năm 2003.C-130G USMC BuNo 151891, c.n. 3878Được chuyển đổi thành EC-130G, 1966, sau đó thành máy bay thử nghiệm EC-130Q năm 1981. Thành TC-130G tháng 5 năm 1990 và được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho đội Blue Angels, hoạt động trong "Fat Albert Airlines" từ 1991 tới 2002. Nghỉ hưu tại Bảo tàng Không quân Hải quân Quốc gia tại NAS Pensacola, Florida, tháng 11 năm 2002.C-130H 460, c.n. 4566Thuộc quyền điều hành của Phi đội 4 Không quân Hoàng gia Saudi, tháng 12 năm 1974, tháng 1 năm 1987. Bị cháy trên mặt đất tại sân bay Jeddah, Ả Rập Xê Út, tháng 12 năm 1989. Được phục hồi để huấn luyện mặt đất tháng 8 năm 1993, tháng 3 năm 2002. Tại Bảo tàng Căn cứ Không quân Riyadh, tháng 11 2002, được phục hồi để trưng bày.C-130H USAF 74-1686, c.n. 4669Máy bay vận tải thuộc 463 TAW; một trong ba bộ khung chiếc C-130H đã được chuyển đổi thành YMC-130H trong nỗ lực giải cứu các con tin ở Iran, Chiến dịch Credible Sport với rocket trang bị phía trong, nhưng sau này đã bị tháo ra khi chiến dịch bị hủy bỏ. Sau đó hoạt động trong 4950th Test Wing, rồi được tặng cho bảo tàng Robins AFB, Georgia, tháng 3 năm 1988.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lockheed C-130 Hercules http://news.gc.ca/web/view/en/index.jsp?articleid=... http://www.airforce-technology.com/projects/hercul... http://www.codeonemagazine.com/archives/2004/artic... http://www.heyeng.com/herk.htm http://www.lockheedmartin.com/data/assets/7317.pdf http://www.pakdef.info/pakmilitary/airforce/index.... http://www.afsoc.af.mil/news/story.asp?id=12329413... http://www.history.navy.mil/planes/c130.htm http://www.navy.mil/navydata/fact_display.asp?cid=... http://www.dsca.osd.mil/pressreleases/36-b/2007/In...